crawl 20230311082332266 20230311082332300

Việc SVB đóng cửa không phải là dấu hiệu báo trước một năm 2008 nữa, mà nó đánh dấu sự khởi đầu của một thời kỳ với nhiều thất bại khác.

Sự sụp đổ của Ngân hàng Thung lũng Silicon (SVB) trong vòng 48 giờ

Chỉ mới ngày 9/3, ngân hàng này vẫn quản lý số tài sản 212 tỷ USD và vốn hóa 16 tỷ USD. Ngay sau khi tình hình kinh doanh bết bát bị “phanh phui”, thì SVB đóng cửa đã trở thành vụ sụp đổ lớn nhất của 1 ngân hàng ở Mỹ kể từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu.

Ngoài SVB, Silvergate – nhà cho vay tiền số quy mô nhỏ, cũng thông báo ngừng hoạt động. Ngân hàng này chỉ có 11 tỷ USD tài sản và hoạt động trong lĩnh vực tiền số. Còn SVB thực sự là một ngân hàng và việc họ dừng kinh doanh cũng mang theo những hậu quả về kinh tế.

Tuy nhiên, điều này không thể đánh đồng với nợ xấu, vấn đề thanh khoản và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các ngân hàng đã gây ra khủng hoảng hệ thống năm 2008. Vấn đề của SVB bắt đầu khi Covid-19 bùng phát và hoạt động đầu tư của họ không theo kịp dòng tiền đổ vào. Tiền mặt từ các công ty mới thành lập và các nhà đầu tư mạo hiểm. Họ đầu tư phần lớn số tiền gửi vào trái phiếu dài hạn được chính phủ bảo đảm mang lại lợi nhuận có rủi ro thấp, nhưng chiến lược này không hiệu quả khi lãi suất tăng. Để khắc phục tình trạng này, SVB có kế hoạch bán một số trái phiếu dài hạn và tái đầu tư vào trái phiếu ngắn hạn với tỷ suất sinh lợi cao hơn. Tuy nhiên, các nhà đầu tư và khách hàng của SVB cũng không chờ xem kế hoạch này có thành công hay không. Vào ngày thông báo, cổ phiếu của ngân hàng đã bị bán rất nhiều và khách hàng đã rút 42 tỷ USD chỉ trong 24 giờ.

Những “vết nứt” xuất hiện trong thời kỳ Fed tăng lãi suất

Trong vài năm qua, rất nhiều ngân hàng khác cũng nhận được những khoản tiền gửi khổng lồ và đầu tư vào trái phiếu dài hạn. Liệu họ có đối mặt với số phận tương tự như SVB? Câu trả lời là có thể. Song, SVB là một trường hợp khác biệt trong ngành ngân hàng Mỹ: tiền gửi và các loại tài sản của ngân hàng này cực kỳ nhạy cảm với lãi suất, cùng với đó là cơ sở khách hàng khá đặc biệt.

Một báo cáo gần đây của RBC Capital Markets xếp hạng 100 ngân hàng lớn nhất nước Mỹ về điểm khác nhau trong bảng cân đối kế toán của họ. Trong đó, SVB đứng thứ 99 về tỷ lệ tiền gửi dưới 250.000 USD với chưa đến 3%. Đây là con số rất quan trọng vì những khách hàng doanh nghiệp gửi tiền lớn như của SVB lại đòi hỏi cao, họ muốn nhận lãi cao hơn ngay khi cả lãi suất tăng. Trong khi đó, các bên gửi tiền nhỏ lẻ lại không quan tâm nhiều.

Do đó, áp lực ngay lập tức đè nặng lên tỷ suất lợi nhuận của SVB. Mặt khác, về tỷ lệ tổng tài sản ngân hàng này nắm giữ bằng chứng khoán, SVB lại đức đầu, ở mức 55%. Hầu hết các ngân hàng nắm giữ nhiều khoản vay lãi suất thả nổi phải trả nhiều tiền hơn khi lãi suất tăng. Nhưng đó không phải là SVB. Nhìn chung, các khách hàng của SVB vẫn được hưởng lợi từ môi trường lãi suất thấp. Khi chính sách tiền tệ của Fed được nới lỏng, giúp dòng vốn đầu tư mạo hiểm “chảy vào ào ạt”, các startup đã rất tự tin và có túi tiền “rủng rỉnh”. Khi lãi suất theo thang và đà bán tháo cổ phiếu công nghệ diễn ra, mọi thứ đã thay đổi, khiến các startup lo ngại và phải “thắt lưng buộc bụng”. Cũng trong ngày 9/3, Bloomberg đưa tin rằng Founders Fund – quỹ đầu tư mạo hiểm nổi tiếng, đang khuyến nghị các startup mà họ đầu tư rút tiền khỏi SVB, điều này có thể đã thể hiện phần nào về số phận của SVB. Danh mục đầu tư trái phiếu chính phủ dài hạn của các ngân hàng khác sẽ là lực cản đối với tỷ suất sinh lời của họ trong nhiều năm tới. Điều này cũng đã được các nhà phân tích và nhà đầu tư biết rõ từ trước khi SVB sụp đổ.

Tuy nhiên, vụ việc này có thể đã thay đổi mọi thứ trong hệ thống ngân hàng Mỹ. Sau khi SVB đóng cửa, niềm tin của người gửi tiền sẽ bị ảnh hưởng và yêu cầu các ngân hàng tăng lãi suất cho họ và điều này sẽ tác động đến lợi nhuận của nhà cho vay. Song, đây chỉ là vấn đề về lợi nhuận chứ không phải mối rủi ro lớn liên quan đến khả năng thanh toán như cuộc khủng hoảng năm 2008. Rõ ràng rằng, việc SVB sụp đổ là hệ quả của việc lãi suất thấp được duy trì trong nhiều năm. Trong một môi trường lãi suất “bình thường”, các ngân hàng sẽ không tăng thời hạn đối với danh mục trái phiếu để tăng lợi nhuận. Nếu các ngân hàng thận trong hơn để “bảo vệ” bảng cân đối kế toán, thì hậu quả với hoạt động tạo tín dụng và nền kinh tế sẽ xuất hiện. Ở vụ SVB, việc rủi ro lan rộng cho toàn hệ thống dường như không quá lớn. Tuy nhiên, vào cuối mỗi chu kỳ tăng lãi suất của NHTW thì một giai đoạn mà mọi thứ trong hệ thống tài chính bắt đầu đổ vỡ sẽ xảy ra. Nhưng những vết nứt này dù lớn hay nhỏ đều khiến niềm tin nhà đầu tư và người tiêu dùng sụt giảm.

Trả lời